Khi nhạc sĩ Lê Văn Khoa rời
Việt Nam sau biến cố đau thương của năm 1975, tôi chỉ vừa tròn sáu tuổi.
Tuyệt nhiên tôi không có ký ức gì về những chương trình văn nghệ và
giáo dục mà ông đã từng điều khiển trên đài T.V. trước năm 1975. Cũng
như nhạc sĩ Phạm Duy, Lam Phương, Nam Lộc và một số nhạc sĩ tên tuổi
khác, nhạc sĩ Lê Văn Khoa rời khỏi đất nước mang theo cả một gia tài âm
nhạc và nghệ thuật nhiếp ảnh mà ông đã gầy dựng trước năm 1975.
Sau năm 1975, thế hệ của chúng tôi không còn được nghe gì về ông ngoài
những chương trình bố tôi thỉnh thoảng bắt sóng được từ đài VOA, có đôi
lần nói về ông. Những năm cuối của thập niên 70 và những năm đầu của
thập niên 80, những thanh thiếu niên ở lứa tuổi chúng tôi chỉ còn được
nhồi nhét bởi những bản nhạc ca
ngợi chế độ, lãnh tụ, những bản tình ca ca ngợi các nam nữ "thanh niên
xung phong", "em nông trường, anh biên giới", hay tâng bốc chế độ xã hội
chủ nghĩa với những hình ảnh như "kìa xa xa ống khói kia nhà máy, con
thấy có đẹp không?", v.v.... Thật hiếm hoi khi thỉnh thoảng được bố tôi
lén mở cho nghe những cuốn tape "nhạc vàng" cũ kỹ còn sót lại trong
chiếc máy phát nhạc cũng cũ kỹ không kém.
Ai đã từng
đọc bài thơ nỗi tiếng " Chanson D’automne " của thi- sĩ lừng danh
Pháp-quốc Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi-hồi và xúc-động .
Không xúc-động sao đựơc khi nhà thơ đa-tình này đã rung cảm hồn mình thành những dòng thơ bất-hủ sau đây để nức-nở về tình thu bên bờ sông Seine tuyệt đẹp năm nào:
" Les sanglots longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon coeur
D’une langueur monotone
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l’heures
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m’en vais
Au vent mauvais
Qui m’emporte
Decà delà
Pareil à la
Feuille morte "
" Tiếng đàn ai đó lê-thê
Vĩ- cầm réo-rắt ê-chề lòng đau
Bơ-vơ chuông đổ đồng-hồ
Lòng như héo-hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ-niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót-xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang-hồ phiêu-bạt lá vàng tả-tơi.. "
(Lãng-Du )
Thật
vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là
mùa của những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu
không khí mát mẻ trong lành,rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để
rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi, rơi mãi tận cuối chân trời.
Mùa thu là mùa các thi-nhân đi tìm những vần thơ để sáng-tác thành những tuyệt-phẩm bất-hủ nghìn năm.
Ai đã
từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng chiều thu khi lá vàng bay bay khắp
trời rồi lác-đác rơi qua mái đầu và rớt xuống đất, mới cảm thấy được cái
đẹp tuyệt vời của mùa thu,mới rung cảm theo nhịp của lá vàng đang
rơi,rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi đến tận chân trời xa thăm-thẳm.
Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng baybay, mùa của lá vàng rơi
rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẽo đường. " Thu đi cho lá vàng
bay, lá rơi cho đám cưới về ". Ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về
lá vàng rơi mỗi độ thu về qua những dòng thơ trữ tình sau đây.
Hình ảnh nỗi bật nhất về lá rụng giữa mùa thu là hình ảnh trong hai câu thơ sau đây của thi-sĩ Tản- Ðà :
" Trận gió thu-phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang "
Nhưng hình ảnh trữ tình và lãng-mạng nhất là hình ảnh con
nai vàng ngơ-ngác giưã rừng thu qua bài " Tiếng Thu " của Lưu Trọng Lư
với những câu thơ năm chữ nghe thật êm-đềm như khúc nhạc tình thu trong
rừng vắng :
" Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào-xạc
Con nai vàng ngơ-ngác
Ðạp trên lá vàng khô "
Không
phải chỉ có Tản Ðà hay Lưu Trọng Lư mơí nói đến lá vàng khi mùa thu
tới; hầu hết các thi- nhân Việt-nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng
cách diễn tả hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những
dòng thơ diễn tả về lá vàng mùa thu của một số thi- nhân Việt-nam :
" Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng "
(Huy-Cận)
" Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Ðây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng "
(Xuân-Diệu )
" Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo-teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo "
(Nguyễn Khuyến)
" Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng "
(Chế lan Viên)
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái Can)
" Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa "
(Ngô chi Lan)
" Ðêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương "
(Nguyên-Du)
Ngoài
lá vàng rơi là biểu-tượng của mùa thu, ta còn phải đề cập đến ánh trăng
thu huyền-ảo.Nói đến mùa thu mà không đề-cập đến ánh trăng thu mờ-ảo
sau áng mây trời giữa đêm khuya thanh-vắng làmột sự thiếu sót lớn lao
đối với mùa thu .
Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng
vằng-vặc giữa trời trong khi lá vàng rơi nhè nhẹ giữa đêm khuya cô-tịch
mà trái lại, có những đêm thu trăng buồn ảo-nảo gió heo may thổi về làm
cho lòng người cảm thấy u-buồn man-mác trước cái lạnh không làm tê-buốt
con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta bâng-khuâng giá rét,
làm cho hồn ta nhung- nhớ lạnh-lùng.
Nếu thi-sĩ Thượng Quan- Nghi đời Ðường bên Trung-Quốc đã diễn-tả cái đẹp của ánh trăng thu qua hai câu thơ:
" Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu "
" Sườn non trăng sáng chim bay
Ðồng thu gió lộng ,ve say nhạc sầu "
(Chi-Ðiền dịch)
Thì
tại Việt-Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực và giấy
để diễn-tả chị Hằng giữa đêm thu huyền-diệu. Thật vậy nếu bài " Tiếng
thu " của Lưu trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì tòan bài thơ
mất đi rất nhiều ý-nghĩa về mùa thu :
" Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn-thức "
Riêng nhà thơ Xuân-Diệu đã nhân-cách hóa ánh trăng thu khiến những dòng thơ trở thành bất tử:
" Thỉnh-thỏang nàng trăng tự ngẩn-ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Ðã nghe rét mướt luồn trong gió
Ðã vắng người sang những chuyến đò "
Tuy-nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi-sĩ Hàn Mặc Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại.
Ta
hãy nghe Hàn Măïc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ với lối
nhân-cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp Hằng -Nga đang
rón-rén dời gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng :
" Bóng nguyệt leo song sờ-sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn "
hay là :
" Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe "
Ngoài
Lưu trọng Lư, Hàn mặc Tử, Xuân-Diệu ra , ta cũng thấy rất nhiều nhà thơ
nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài thi-nhân
đãu ca-tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại :
" Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh-thành
Ða-đoan vó ngựa chung-tình bánh xe . "
(Nguyễn-Bính)
" Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào "
( Nguyễn -Khuyến)
" Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi "
( Tản-Ðà)
" Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh-lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu-hắt trên đầu tường vôi "
Ðặng trần Côn (Ðoàn thị Ðiểm địch)
" Vi lô san-sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần -hôn !"
( Nguyễn-Du )
"Ðêm thu gió lọt sông đào
Nửa vành trăng khuyết ,ba sao giữa trời "
( Nguyễn- Du)
" Hoa xuân nọ ,còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia,chưa hé hàn-quang "
( Ôn như Hầu )
Nếu
mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu
nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay-gắt rực lửa như mùa hạtrái
lại rất mát diụ trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng
hồng. Ði dươiù nắng thu người ta thấy tâm-hồn rất thoải mái lâng-lâng
,nhất là những lúc trờiø chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng
khắp phố -phường. Nhiều cặp tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng
thức cái vẻ đẹp của mùa thu, nhặt những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng
cây khẳng-khiu chỉ còn những cành trụi lá dọc hai bên đại-lộ lúc chiều
tà.
Ai cũng biết rằng các thi- nhân khi nói về mùa thu thường
không quên đề-cập đến nắng thu. Nhà thơ Chế lan Viên đã làm cho ta
ngạc-nhiên khi viết mấy câu thơ liên-quan đến nắng thu như sau:
"Chao ôi! thu đã tới rồi sao ?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao ."
Nhưng
ngạc-nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích-Khê
sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một
giai-điệu tuyệt vời :
" Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh-mông ."
Dĩ-nhiên,
mỗi nhà thơ diễn-tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết đều
ca-ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân-Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất-ngôn đầy lưu luyến trữ-tình :
" Nõn-nà sương ngọc quanh thềm dâu .
Nắng nhỏ bâng-khuâng chiều lỡ thi. "
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc-Ly đều cảm thấy hồn mình xao-xuyến bâng -khuâng :
"Tôi đứng bên nầy bờ dĩ-vãng
Thương về con nước ngại-ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha-thiết nắng hoe thềm. "
Ngòai ra ta còn thấy rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói về nắng thu với những dòng thơ thật đẹp và thật buồn :
"Chiều nay nắng nhạt luyến chân đồi
Hơi lạnh tàn thu giục lá rơi
Sương xuống chiều đi lòng vắng vẻ
Thê-lương thêm bận khúc ly-hòai ."
hay là :
" Hát bài hát ngô-nghê và êm ái
Bên sườn non mục-tử cưỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái . "
Nam-Trân Nguyễn học Sỹ
Nếu
những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi,là ánh trăng thu giữa đêm
khuya thanh-vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang-hôn, thì hình ảnh
buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu đã làm cho
lòng người lạnh-lẽo,u-buồn, làm cho lòng người hoang vắng sầu thương,
bơ-vơ giữa thế-giới mưa rơi buồn-bã.
Trước cảnh mưa thu ảm-đạm ở ngòai bệnh-viện, nhạc-sĩ tài ba Ðặng thế Phong đã
xúc-động rồi sáng tác ngay bản nhạc " Giọt mưa thu. " trước khi
vĩnh-biệt trần-gian để lại cho đời những giọt lệ thu sầu thương nức-nở,
những giọt lệ tình ai-oán lâm-ly : " Ngòai hiên giọt mưa thu thánh-thót
rơi. Trời lắng u-buồn mây hắt-hiu ngừng trôi.Nghe gió thỏang mơ-hồ trong
mưa thu ai khóc ai than hờ "
Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến
một trong những cảnh vật buồn-bã nhất của trần thế. Ðọc mấy câu thơ sau
đây của Bà Huyện Thanh Quan, ta thấy cảnh mưa thu thật là tiêu-điều
buồn-bã:
" Thánh-thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu-sơ
Xanh um cổ-thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng -giang phẳng-lặng tờ. "
Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân-Diệu cũng cho ta thấy cảnh lặng lẽ u-buồn :
" Gió thầm, mây lặng , dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà. "
Tuy-nhiên nếu trăng thu,nắng thu, mưa thu ,là những đề tài bất-hủ cho các văn thi-sĩ,nhạc-sĩ lấy đó để sáng-tác thì
sương thu là một đề tài không kém quan-trọng để các thi-nhân dệt thành
thơ. Vào những lúc trời sáng tinh-sương, ai đã từng ra sau vườn,đều
trông thấy nhưnõg giọt sương đọng trên cành cây,ngọn cỏ giống như những
hạt kim-cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Cho đến ngày hôm nay,rất nhiều
người Việt-nam đã thuộc lòng đọan văn của nhà văn Thanh-Tịnh tả về cảnh
sương thu : " Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió
lạnh, mẹ tôi âu-yếm nắm tay tôi,dẫn tôi đi trên con đường làng dài và
hẹp." Một nhà thơ nỗi tiếng như sóng cồn một thời vang bóng đã ca-ngợi
sương thu qua bài thơ " Sương rơi. " Ðó là thi-sĩ Nguyễn-Vỹ với bài thơ
hai chữ đã để lại cho đời một tác-phẩm bất-hủ về sương thu.:
" Sương rơi Rồi hạt Rơi sương
Nặng trĩu Sương trong Cành dương
Trên cành Tan-tác Liễu ngã
Dương-liễu Trong lòng Gió mưa
Nhưng hơi Tả-tơi Tơi-tả
Từng giọt
Gió bấc Em ơi ! Thánh-thót
Lạnh-lùng Từng giọt Từng giọt
Hiu-hắt Thánh-thót Tơi-bời
Thấm vào Từng giọt Mưa rơi,
Em ơi Ðiêu-tàn Gió rơi;
Trong lòng Trên nấm Lá rơi,
Hạt sương Mồ hoang !.. Em ơi ! .. "
Thành một Vết thương !..
Nguyễn-Vỹ.
Như
đã được trình bày ở trên,mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác-đác,có trăng
thu mờ aỏ giữa đêm buồn,có những giọt mưa rơi thánh-thót thật lâm-ly.
Ðã thế, nhiều lúc ánh nắng chiều thu làm cho người lữ-hành thêm cô-độc
bâng-khuâng,luôn luôn cảm thấy như xa vắng lạc-lòai, như biệt-ly
hiu-quạnh.Vì thế mà nhiều người đã cho rằng mùa thu là mùa của
biệt-ly, của xa cách nên tình thu thường nức-nở nghẹn-ngào. Mùa thu là
mùa nhớ nhung từ đó và cũng là nhung-nhớ từ đây. Thế nên nói đến mùa thu
là nói đến biệt-ly nhung-nhớ,là nói đến ngăn-cách xa nhau,là nói đến
chia-ly buồn-bã và lắm lúc nói đến vĩnh-biệt ngàn đời để rồi "
nghìn-trùng xa cách người đã đi rồi, còn gì đâu nữa mà khóc với cười ."
Sau đây, ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về sự biệt-ly,sự nhung-nhớ cũng như những nỗi u-buồn giữa mùa thu :
" Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u-uất, hận chia-ly
Ít nhiều thiếu-nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ-ngợi gì "
(Xuân-Diệu )
Hay những dòng thơ lục-bát đầy vẻ âm-u,tiêu-điều của Huy-Cận;
" Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân-gian e cũng tiêu-điều dưới kia . "
Hoặc những câu thơ đầy nhung-nhớ quằn-quại giữa mùa thu:
" Chao ôi! mong nhớ ! ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn."
(Chế lan Viên)
Hay hình ảnh xa vắng biệt-ly của người chinh-phu trong lòng người cô-phụ :
"Em không nghe rạo-rực
Hình ảnh kẻ chinh-phu
Trong lòng người cô-phụ. "
(Lưu trọng Lư)
Hoặc là những câu thơ đầy nỗi nhớ-thương của thi-nhân :
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng ,
Cõi lòng man- mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái-Can)
Nhưng
sự biệt-ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ-nhung quằn-quại triền-miên cũng như
sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là những dòng thơ
nức-nở lệ nhòa của nữ thi- sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những
bài thơ bất-hủ ngàn năm và đã trở thành huyền thọai trong thi-ca
Việt-nam. Ta hãy nghe nhà thơ T.T.KH nức-nở những điệp-khúc tình Thu sau đây :
" Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu !."
hay là :
"Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái-ân lạt-lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người ."
Tóm
lại qua thi-ca Việt-nam, ta thấy hầu hết các thi- nhân nước Việt đều
nói đến mùa thu, ca ngợi mùa thu vì mùa thu có những đêm trăng mờ ảo, có
những lá vàng rơi tuyệt đẹp, có những giọt mưa thu thánh thót rơi thật
lâm-ly,bi-thảm vv.. Và cũng vì mùa thu là mùa của ngăn-cách ,của
ly-biệt,là mùa của nức-nở nghẹn-ngào nên các thi-nhân Việt-nam không ai
mà không xúc-động khi thấy mùa thu đến. Vì vậy ,qua thi-ca Việt-nam,ta
thấy nhiều nhà thơ đã để lại cho đời những bài thơ trữ-tình bất-hủ về
mùa Thu
D.V.D
No comments:
Post a Comment